Việt Nam ngày ấy và bây giờ là sự gợi ý cho Israel

Bài viết dưới đây là của một khách du lịch người Israel tên là Ron Kronish đăng trên báo Huffingtonpost ngày 26/12/2017 sau chuyến du lịch đến Việt Nam.



Tôi đã có một chuyến thăm Việt Nam đặc biệt và thú vị tuần trước với vợ tôi – Amy, và một vài bạn bè ở Chicago. Đó là một phần trong chuyến đi 2 tuần từ Singapore đến Hong Kong mang tên  “trải nghiệm Đông Nam Á”, và quả thực nó là như vậy. Chúng tôi đã học được rất nhiều về văn hóa châu Á từ các chuyến thăm Singapore, Thái Lan, Campuchia, Việt Nam và Hong Kong.

Trong bài viết này, tôi muốn tập trung vào ấn tượng của tôi về Việt Nam.

Để bắt đầu, tôi phải nói về ấn tượng về người dân Việt Nam đã không quên “kháng chiến chống Mỹ” như thế nào, mặc dù nó đã kết thúc 42 năm trước – vào 30/4/1975- nhưng đồng thời họ không vướng mắc vào quá khứ và đã tham gia xây dựng lại đất nước và hướng về tương lai tốt hơn.

Tôi đã kịch liệt phản đối cuộc chiến đó vào cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 thời tôi còn là sinh viên ở Mỹ, đó là một giai đoạn cơ sở trong cuộc đời tôi. Trong thời kỳ đó và thậm chí kể từ đó, tưởng tượng về chiến tranh Việt Nam vẫn khắc ghi trong lòng tôi. Vì thế, tôi đã rất hiếu kỳ trong lần đầu tiên tận mắt nhìn Việt Nam và gặp gỡ người dân ở đây cũng như các phong cảnh và các thành phố của nó.

Chúng tôi đã thăm cả Sài Gòn – hiện giờ đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội – thủ đô của nước Việt Nam thống nhất. Cả hai thành phố là những trung tâm sầm uất với số lượng lớn du khách, hầu hết là người Trung Quốc nhưng cũng có một số người Mỹ và dĩ nhiên nhiều người Israel! (có nhiều nhóm người Israel trên hành trình của chúng tôi – hầu hết mọi nơi chúng tôi đã đến, tôi có thể nghe thấy những tiếng Do Thái).

Nhưng điều ý nghĩa nhất trong chuyến thăm Việt Nam của tôi là cơ hội để học hỏi về quá trình hòa giải đáng ngạc nhiên mà đã và đang diễn ra trong 20 năm giữa Mỹ và Việt Nam, giữa doanh nhân Mỹ và doanh nhân Việt Nam, và quan trọng nhất là giữa nhân dân – những người đã ghét cay ghét đắng nhau trong thời gian dài (quan hệ ngoại giao đã được thiết lập giữa hai nước vào năm 1995).

Trong tất cả những năm chiến tranh, họ chất đống những thi hài và phá hoại lẫn nhau trong một cuộc chiến kéo dài và vô nghĩa.

Đặc biệt, tôi đã bị lay chuyển bởi những câu chuyện xác thực mà tôi nghe về các cựu binh chiến tranh Việt Nam của Mỹ - những người đến Việt Nam – thỉnh thoảng đến rồi lại quay lại tiếp để gặp các cựu thù của họ và giúp các tổ chức phi chính phủ trên khắp đất nước này, đặc biệt cho những người dân Việt Nam bị thương tật về thân thể hoặc thần kinh vì chất độc da cam và bom napan cần được chăm sóc đặc biệt trong thời gian dài. Một trong những điều mà tôi đã học được ở Việt Nam gọi là “bắc cầu”, và nó đang làm chính xác cái việc bắc cầu hiểu biết và hợp tác giữa hai cựu thù.

Theo một bài báo trên New York Times khoảng 1 năm rưỡi trước đây, “Qua nhiều năm, Việt Nam và Mỹ đã lại gần nhau nhanh đến mức thậm chí các kỹ sư của sự hòa giải gọi nó là ngoạn mục”.

Rõ ràng người cựu binh nổi tiếng nhất trở lại Việt Nam là Pete Peterson – người đã được Tổng thống Bill Clinton chỉ định làm Đại sứ Mỹ đầu tiên sau khi bình thường hóa quan hệ năm 1995. Ông Peterson là một cựu phi công đã bị bắn rơi trên bầu trời Hà Nội và bị giam 6 năm rưỡi trong nhà tù mà người Mỹ gọi là Hilton Hà Nội (Tôi đã tận mắt nhìn thấy địa điểm này – nơi thực ra là một nhà tù đáng ghét đầu tiên dành cho những người dân Việt Nam chống lại Thực dân Pháp và sau đó cho phi công Mỹ bị bắn rơi trong chiến tranh Việt Nam).

Theo bài báo nói trên, khi ông Peterson nhớ lại chiến tranh và sự tàn phá hủy diệt mà nó gây ra, ông cảm thấy chán ngán. Ông đã được trích dẫn nói rằng: “Nếu Mỹ và Việt Nam là những đồng minh tự nhiên như vậy, tại sao ngay từ đầu họ lại phải đánh nhau?”. Và ông nói thêm: “Tôi đã nghĩ về điều này từ lâu. Tôi tin chắc rằng cuộc chiến có thể đã tránh được nếu chúng ta có những nỗ lực để hiểu chính trị ở nơi này”. Thật là một tuyên bố tuyệt vời bởi một người đàn ông tuyệt vời đã thực sự bắt tay vào việc hòa giải và hiểu biết người khác.

Người hướng dẫn trẻ thú vị của chúng tôi ở Vịnh Hạ Long và Hà Nội đã học tiếng Anh và quan hệ quốc tế tại Đại học Hà Nội, đã nói với chúng tôi rằng anh đã tham gia làm hướng dẫn và phiên dịch cho nhiều cuộc gặp giữa các cựu chiến binh Mỹ và Việt Nam trong cuộc chiến kinh khủng đó, và anh thấy đó là những sự kiện rất đáng kể và ý nghĩa trong đời mình.

Anh đã lớn lên ở Việt Nam sau khi đất nước thống nhất và chỉ biết chiến tranh qua lịch sử. Vì vậy, anh là một phần của thế hệ mới muốn hướng đến một tương lai mới, tương lai nhiều hứa hẹn và thịnh vượng hơn cho tất cả 94 triệu người Việt Nam, một tương lai trong đó chiến tranh đã chấm dứt hơn 40 năm trước sẽ trở thành một ký ức ngày càng xa hơn và tương lai hòa bình sẽ trở thành tiêu chuẩn.
Tưởng tượng một kịch bản tương tự cho người Palestin và người Israel với tất cả sự khác biệt trong văn hóa và chính trị.

Nhắm mắt lại và tưởng tượng rằng cuộc chiến giữa người Israel và Palestin đến một ngày kết thúc. Nếu nó có thể xảy ra trong một nơi khác của thế giới thì cũng có thể xảy ra ở đây! Ngược lại với tầm nhìn của Thủ tướng Israel hiện nay – người nói đi nói lại rằng chúng ta sẽ sống bên cạnh thanh kiếm ở đây mãi mãi – hãy xem xét khả năng cuộc chiến của chúng ta sẽ chấm dứt. Nó không phải là sự xếp đặt thiêng liêng hay mưu mô chính trị mà nó sẽ đi đến kết thúc.

Các cuộc xung đột khác đã chấm dứt - ở Việt Nam và Campuchia, chưa kể Bắc Ireland và Nam Phi – mặc dù chúng đã kéo dài trong nhiều năm và tưởng như không thể kết thúc trong thời điểm đó. Cuộc xung đột của chúng ta – thường là vô nghĩa và thảm thương – cũng có thể và nên kết thúc càng sớm càng tốt, dù cho nhìn có vẻ không thể ngay bây giờ.

Và sau đó các cựu chiến binh sẽ trở thành những người hợp tác vì hòa bình. Cựu binh sẽ gặp nhau thường xuyên – như họ đã làm ở Việt Nam – và tham gia với nhau trong các dự án cùng có lợi. Một quá trình hòa giải cuối cùng sẽ được cho phép trở thành một xu hướng chính để cho phép cả hai bên hàn gắn các vết thương của quá khứ và mở đường cho một tương lai tốt hơn cho con cái cháu chắt của họ.


Đây là những suy nghĩ mơ mộng của tôi khi tôi nghe những câu chuyện hùng hồn về sự hòa giải giữa các cựu thù ở Việt Nam khi tôi đi bộ quanh trung tâm Hà Nội tuần trước. 

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn