Những yếu tố giúp Việt Nam đánh bại B-52 năm 1972

Ngày này 45 năm về trước, Không quân Mỹ bắt đầu thực hiện một chiến dịch tập kích đường không quy mô chưa từng thấy với tuyên bố đưa Hà Nội trở về thời kỳ đồ đá. Tuy nhiên với hơn 30 chiếc B-52 bị bắn rơi, Việt Nam không trở về thời đồ đá và bước vào thời đại đồ nhôm. Vì sao Việt Nam có thể bắn rơi được nhiều B-52 như vậy? Dưới đây là một số yếu tố. 

Tử huyệt của B-52

Trước hết, hãy nghe những lời rút kinh nghiệm từ chính đối phương. 5 năm sau khi chiến dịch không kích Linerbacker II kết thúc, Đại úy phi công Mỹ Drenkowski đã viết bài đăng lên tạp chí US Airfoce để lý giải nguyên nhân B-52 bị tên lửa SAM-2 bắn hạ.

Theo lập luận của Drenkowski thì B-52 bị bắn rơi quá nhiều trong chiến dịch vì Bộ chỉ huy Không quân chiến lược Mỹ (SAC) đã quá cứng nhắc khi bắt các phi công phải tuân thủ một lộ trình di chuyển cố định cho tất cả các máy bay đi đánh phá.

SAC yêu cầu đội hình B-52 trong cuộc hành binh Linerbacker II sẽ là đội hình 3 chiếc theo hình tam giác. Hai chiếc đi sau sẽ giữ khoảng cách 2,4 km với chiếc đi đầu và hai chiếc này sẽ bay chếch về hai bên của chiếc dẫn đầu.


Tiếp đó, khi cắt hết bom, các máy bay B-52 sẽ quặt khỏi mục tiêu để bay về căn cứ. Vị trí quặt của chiếc đi đầu cũng sẽ là vị trí của hai chiếc tiếp theo và của toàn bộ các tốp B-52.

Drenkowski viết: “Những người điều khiển tên lửa SAM-2 khôn ngoan đã quan sát ngay vị trí chiếc B-52 đi đầu ngoặt khỏi mục tiêu. Họ phóng lên một quả đạn SAM-2 để tên lửa bay theo đường đạn khoảng 45 giây tới gần chỗ B-52 phải ngoặt. Họ dùng 5 đến 10 giây để điều khiển quả tên lửa “khóa” vào điểm ngoặt, sao cho khi tên lửa tới đó vừa đúng lúc thì chiếc B-52 tiếp theo cũng bay tới. Thật ngon xơi”.

Trong khi đó, Bộ chỉ huy Không quân chiến lược Mỹ giải thích rằng trong cuộc hành binh do mật độ máy bay B-52 và các máy bay chiến thuật đi theo hộ tống quá dày, nếu cho phép các phi công cơ động để tránh tên lửa thì sẽ khiến máy bay dễ bị đâm vào nhau. Mặt khác, với thân xác cồng kềnh, B-52 sẽ dễ dàng bị lọt và khỏi “hành lang nhiễu” nếu như nó cơ động trên không.

Tuy Drenkowski nói như vậy nhưng để bắn trúng được B-52 cũng không phải là ngon xơi bởi vì nó có những biện pháp bảo vệ rất mạnh. Trên mỗi chiếc B52 có đến 15 máy gây nhiễu. Tác dụng của máy gây nhiễu này là để phá hoại sóng radar của đối phương khiến màn hiện sóng radar bị trắng xóa hoặc bị nhiễu không nhìn rõ được mục tiêu. Và như thế dù có phóng tên lửa lên cũng khó trúng mục tiêu.

Từ năm 1964, không quân Mỹ đã đối đầu với hệ thống phòng không của miền Bắc. Dựa vào nền khoa học tiên tiến, người Mỹ đã liên tục cải tiến B52 cùng các trang bị cho nó mà đặc biệt là các máy gây nhiễu nhằm làm vô tác dụng hệ thống radar của Việt Nam. Bởi thế, bước vào chiến dịch Linerbacker II, các máy gây nhiễu trên B52 đã phá hầu hết các rãnh sóng của radar Việt Nam.

Bên cạnh các máy gây nhiễu của B-52, mỗi phi vụ đánh phá, không quân Mỹ còn tổ chức thêm nhiều máy bay khác chỉ chuyên gây nhiễu như các loại EB-66, RF-4, RF-4C… Các máy gây nhiễu đặt trong bản thân B-52 gọi là nhiễu trong đội hình còn máy gây nhiễu đặt trong các máy bay nói trên gọi là nhiễu ngoài đội hình. Trong chiến dịch Linerbacker II, người Mỹ sử dụng tổng hợp tất cả các loại nhiễu trong và ngoài đội hình. 

Có lẽ còn chưa yên tâm lắm với các máy gây nhiễu, người Mỹ còn dùng tới thủ đoạn gây nhiễu tiêu cực. Trong 12 ngày đêm đánh phá Hà Nội, Hải Phòng, trước mỗi đợt tiến công, các máy bay F4 bay trước rải một hành lang các sợi nhôm dọc theo đường bay của B52. Các sợi nhôm rất mảnh và nhẹ này cứ bay lơ lửng trong không trung và phản xạ lại sóng radar khiến cho màn hiện sóng bị nhiễu cực độ. 

Ngoài các loại nhiễu, đội hình B-52 còn được bảo vệ rất cẩn trọng bởi hàng chục thậm chí hàng trăm máy bay chiến thuật. Đại úy Drenkowski đã viết về kịch bản này trong tạp chí US Airforce năm 1977: “Ngày 17 tháng 12 năm 1972, các phi công B-52 được lệnh báo động. Tối hôm sau, chiến dịch Linebacker 2 bắt đầu. Các máy bay F-111 bay trước tiên vào Bắc Việt Nam với tốc độ siêu âm ở độ cao thấp, tiến hành oanh tạc vào các sân bay. Máy bay F-4 bay theo rải nhiễu kim loại thành một hành lang bằng nhôm kéo dài từ Đông Bắc sang Tây Nam thung lũng sông Hồng nhằm bịt mắt radar. Phía cuối hành lang song song với rặng núi Tam Đảo, bắt đầu xuất hiện các tốp B-52. Theo sau chúng là hơn 100 chiếc F-4 để đánh chặn MiG và 4 chiếc F-105 trang bị tên lửa đánh radar để chế áp tên lửa SAM. Các tốp B-52 dãn cự ly rộng hơn để mỗi tốp 3 chiếc có thể qua mục tiêu chỉ trong từ 2 đến 3 phút. Khoảng các giữa mỗi tốp mở rộng tới 4 phút bay. Như vậy, một lực lượng 18 chiếc B-52 bay qua mục tiêu hết độ nửa giờ, bay cùng một đường bay, một tốc độ, một độ cao như nhau”. 

Thế nhưng, mặc dù được bảo vệ kỹ càng bằng lực lượng hùng hậu và máy móc tinh vi là thế, B-52 vẫn bị lực lượng phòng không và không quân của Việt Nam tìm ra điểm yếu để khai thác và đánh bại. 

Cuốn “Cẩm nang bìa đỏ”

Trong truyện Tam Quốc, Khổng Minh thường trao cho thuộc hạ những túi cẩm nang dặn khi nguy cấp thì mở ra sẽ có diệu kế. Ở nước ta, trước khi chiến dịch Linerbacker II diễn ra, một cuốn cẩm nang đã được phổ biến, không chỉ cho cán bộ sĩ quan mà cho toàn thể những chiến sĩ sắp bước vào trận đánh.

Đó là một tập tài liệu có bìa màu đỏ nên thường được gọi là “cẩm nang bìa đỏ”. Tên đầy đủ của tập tài liệu này là: “Cách đánh B-52 của bộ đội tên lửa”. Cuốn sách chỉ dày 30 trang đánh máy nhưng nó là sự tổng hợp, đúc kết kinh nghiệm trong quá trình gần 7 năm chiến đấu với B-52 và các thủ đoạn của Không quân Mỹ.

Nội dung cuốn sách bao gồm các kinh nghiệm xác định B-52 trong môi trường nhiễu cực mạnh, cách chống tên lửa Sơ Rai (AGM-45 Shrike) và cả cách phát hiện những chiếc F-4 đóng giả B-52…

Ngày 31/10/1972, “Cẩm nang bìa đỏ” được đem ra thảo luận tại hội nghị của Quân chủng Phòng không – Không quân. Trong lần họp này, ngoài sự có mặt của các cán bộ cấp quân chủng, sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn và các cơ quan, còn có nhiều trắc thủ, sĩ quan điều khiển thuộc các kíp chiến đấu của các tiểu đoàn hỏa lực. Với kinh nghiệm chiến đấu thực tiễn, họ đã có nhiều ý kiến bổ sung hết sức quý báu.

Những phương pháp đánh B-52 trong cuốn cẩm nang sau đó được Quân chủng Phòng không - Không quân phổ biến tỉ mỉ đến từng kíp chiến đấu. Nhờ đó khi vào chiến dịch, bộ đội tên lửa đã bình tĩnh tự tin bẻ gãy các đợt tấn công của Không quân Mỹ. Thậm chí, có những đơn vị chưa từng chạm trán B-52 cũng bắn rơi pháo đài bay như trung đoàn 257 và 261.

Mấy ngày sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ trên không kết thúc, ở hội trường Quân chủng Phòng không - Không quân, trước đông đảo cán bộ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã giơ cao một cuốn sách có bìa màu đỏ và nói: "Chúng ta thắng được B-52 Mỹ là do nhiều nguyên nhân, trong đó có sự đóng góp hết sức quan trọng của cuốn sách này".

Khắc phục tình trạng thiếu đạn

Trong chiến dịch chống B-52 năm 1972, một trong những vấn đề khó khăn của Việt Nam là sự khó khăn về đạn tên lửa. Từ năm 1969, Liên Xô đã không viện trợ cho chúng ta thêm một quả đạn tên lửa SAM-2 nào nữa. Với số lượng đạn dự trữ, Bộ Tổng tham mưu và Quân chủng Phòng không - Không quân dự liệu là sẽ thiếu nếu xảy ra trận chiến lớn với Mỹ; do vậy đã có chỉ đạo tìm biện pháp khắc phục.

Vào thời điểm đó, số đạn tên lửa đã quá hạn sử dụng nằm trong kho còn đến vài nghìn quả. Đây là số đạn mà Liên Xô viện trợ cho Việt Nam từ trong những năm chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1964 – 1968).


Ở các nước, khi vũ khí đạn dược hết hạn sử dụng thì phải hủy để đảm bảo an toàn. Nếu muốn kéo dài tuổi thọ thì phải có quy trình công nghệ phức tạp, mà lúc đó ngành kỹ thuật quân sự của Việt Nam chưa trải qua. Để đảm bảo có đủ đạn cho bộ đội tên lửa chiến đấu, một nhiệm vụ nặng nề được đặt ra là phải hồi sinh cho những quả tên lửa quá hạn sử dụng trong kho.

Mặc dù chưa có kinh nghiệm nhưng với sự thông minh sáng tạo của các cán bộ kỹ thuật, dựa trên tài liệu của quân đội bạn, Việt Nam đã thực hiện thành công quy trình lắp ráp ngược.

Trước hết là lấy hết nhiên liệu ra, rửa sạch các khoang chứa, sấy thật khô, rồi dùng thiết bị đặc biệt kiểm tra độ chịu đựng áp suất cao của từng khoang. Tiếp theo là tháo rời tầng đuôi, đầu đạn, cánh lái, xếp gọn tất cả vào thùng, xong cặp chì lại y như mới.

Bằng cách ấy, ngành kỹ thuật tên lửa phòng không đã kéo dài tuổi thọ cho toàn bộ số đạn "quá đát" nói trên thêm 48 tháng nữa. Chính nhờ vào số đạn này mà trong 12 ngày đêm chiến đấu, bộ đội tên lửa ta được đảm bảo đủ đạn để làm nên chiến dịch Điện Biên Phủ trên không đánh bại “canh bạc cuối cùng” của Mỹ.

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn