Gần đây, chuyên mục bình luận chuyên sâu về quân sự của mạng
Sina đăng một bài với tựa đề: “Việt Nam hội tụ 6 loại tên lửa chống hạm lớn của
Nga, Giải phóng quân muốn áp chế cần tiên phát chế nhân”.
Bài báo viết: Cuối năm ngoái, tin tức về việc tàu ngầm Kilo
của Hải quân Việt Nam bắn thử tên lửa chống hạm Club đã thu hút sự chú ý. Tên lửa
Club tức là phiên bản xuất khẩu của loại tên lửa Klibr mà Nga đang dùng, được
mang tên 3M54E. Nó sử dụng hành trình hỗn hợp cận âm và siêu âm, có năng lực đột
phá phòng không cực cao. Việt Nam tổng cộng đã mua 50 quả, sức uy hiếp đối với
tàu thuyền của quân ta không thể coi thường.
Nhưng nếu bạn cho rằng “club” là tất cả lực lượng tên lửa chống
hạm của Việt Nam thì hoàn toàn sai lầm. Trong số hải quân các nước Đông Nam Á,
thực lực của Hải quân Việt Nam là một trong những nước mạnh nhất. Đặc biệt ở
phương diện năng lực chống hạm, không có nước Đông Nam Á nào có thể sánh được.
Mấy năm gần đây, Việt Nam và Nga hợp tác quân sự và thương mại
mật thiết, toàn bộ lực lượng tên lửa chống hạm của Việt Nam đều là sản phẩm
Nga, ngoài tên lửa “club” mà tàu ngầm Kilo đã phóng ra, Việt Nam còn mua 5 loại
tên lửa khác dưới đây:
Tên lửa chông hạm Kh-35 Uran tốc độ cận âm là chủ lực trên
các tàu mặt nước. Đây là một quả tên lửa chống hạm kiểu phương Tây có đặc điểm
tính năng của tên lửa Harpoon, đồng thời có khả năng chống nhiễu rất mạnh. Điều
đáng chú ý là Nga không những bán mà còn cung cấp cho Việt Nam dây chuyền sản
xuất tên lửa Kh-35 và Việt Nam đặt tên cho phiên bản sản xuất trong nước đó là
KCT-15. Dự tính tổng số lượng sản xuất trong tương lai có thể vượt qua 400 quả.
Về lĩnh vực lực lượng chống hạm trên bờ, Việt Nam từ sau khi
có được tên lửa chống hạm P-15 của Liên Xô, đến nay lại mua được tên lửa bờ biển
P-800, tổng cộng đã mua 10 bộ xe phóng, 40 quả tên lửa. Tầm bắn tối đa 300 km
cùng với tốc độ Mach 2.5 của loại tên lửa này uy hiếp rất lớn đối với các khu vực
trên biển. Hiện nay, trong các vùng biển nước ngoài cũng chỉ có các hệ thống
phòng không tầm gần là đã đánh chặn thành công các tên lửa chống hạm tốc độ cận
âm.
Đối với tốc độ siêu âm của tên lửa P-800, dù là các hệ thống
phòng không tầm gần tiên tiến nhất cũng sẽ gặp áp lực. Quân Nga cũng xem loại
tên lửa này là chủ lực của lực lượng chống hạm tương lai chứ không phải tên lửa
chống hạm “club”.
Về lực lượng chống hạm trên không, quân đội Việt Nam chủ yếu
thông qua khả năng chống hạm của các máy bay Su-30MK2. Cùng với các hợp đồng
mua máy bay Su-30, Việt Nam đã mua 100 quả Kh-31, 200 quả Kh-59, 100 quả Kh-29.
Các tên lửa này đều có khả năng chống hạm, thích hợp đối phó với các tàu mặt nước
ở mức độ khác nhau.
Trong số 6 loại tên lửa nói trên, club, uran và p-800 là những
vũ khí tối tân xuất hiện sau khi Liên Xô giải thể, được bên ngoài gọi là “3 kiếm
khách chống hạm”. 3 loại tên lửa phóng từ máy bay tuy là sản phẩm thời kỳ cuối
Liên Xô nhưng gần đây khi xuất khẩu cũng đều được cải tiến.Trong lĩnh vực chống
hạm, quân đội Việt Nam có thể gọi là “phiên bản mini” của quân Nga. Theo các
tin tức công khai, hiện nay mặc dù bản thân Nga có thể cũng không có đủ cả 6 loại
tên lửa nói trên.
Theo truyền thông, tương lai Việt Nam sẽ mua cả tên lửa
BrahMos của liên doanh Nga Ấn. Khách quan mà nói, trình độ kỹ thuật của lực lượng
chống hạm Việt Nam tuyệt đối có thể xem là đạt đến mức “hàng đầu”. Việt Nam tích
trữ những tên lửa này, mũi kiếm chỉ vào đâu không nói cũng rõ.
Đương nhiên Giải phóng quân (tức quân đội TQ) cũng không cần
sợ, mấy năm nay trình độ phòng không chống tên lửa của Hải quân Trung Quốc đã
tiến bộ vượt bậc, lấy các tên lửa Hải Hồng Kỳ 9 làm chủ lực phòng không tầm
trung và tầm xa, lấy Hồng Kỳ 16 làm chủ lực phòng không tầm trung và tầm gần, lấy
Hồng Kỳ 10 làm phòng không tầm gần, và lấy pháo phòng không 730/1130 làm chủ lực
hệ thống phòng ngự cuối cùng. Trình độ kỹ thuật công nghệ hoàn toàn có thể phân
cao thấp một phen với các tên lửa chống hạm mạnh nhất thế giới hiện nay.
Nhưng nếu đem so sánh những tên lửa mũi nhọn của Việt Nam với
hệ thống phòng không của chúng ta thì quả thực cũng khó mà dự liệu. Bởi thế,
Trung Quốc đối mặt với lực lượng chống hạm của Việt Nam vẫn cần lợi dụng lực lượng
lớn mạnh của mình để áp chế, tức là trước khi Việt Nam phóng tên lử thì tấn
công tiêu diệt các phương tiện phóng.
Đứng trên năng lực tác chiến của quân đội Trung Quốc hiện
nay mà nói cũng hoàn toàn có năng lực để làm điều đó. Đối với xung đột tiềm
năng trong tương lai, trên mặt chiến lược chúng ta xem thường đối thủ nhưng
trên mặt chiến thuật nên xem trọng. Như vậy mới có thể đảm bảo lấy tổn thất tối
thiểu mà giành được thắng lợi tối đa”.
Mõ bình luận: Trên đây là bài viết của mạng Sina về thực trạng
lực lượng tên lửa chống hạm của Việt Nam và đối sách mà Trung Quốc nên làm nếu
xảy ra xung đột trên biển. Đối sách này không có gì mới. Cái gọi là “tiên phát
chế nhân” tức là ra tay trước khi đối phương ra tay, ở đây, tác giả Trung Quốc
chỉ ra là đánh vào các phương tiện có thể phóng tên lửa chống hạm của Việt Nam.
Tuy nhiên câu chuyện làm sao để tiêu diệt được các phương tiện phóng này thì
không thể chỉ 1 câu nói tiêu diệt là tiêu diệt được. Bởi vì lực lượng tên lửa
chống hạm của Việt Nam được cấu thành từ bốn bộ phận chính là: tên lửa phóng từ
tàu mặt nước, tên lửa phóng từ trên đất liền, tên lửa phóng từ máy bay và tên lửa
phóng từ tàu ngầm.
Với nhiều phương tiện phóng phân tán ở 4 môi trường khác
nhau là trên không, trên đất liền, trên mặt biển và dưới lòng biển, cho nên muốn
tấn công trước để chế áp cũng không dễ dàng. Xin đơn cử một ví dụ, muốn đánh phủ
đầu phương tiện phóng từ trên không tức là phải đánh từ khi máy bay còn nằm
trong căn cứ. Như vậy chỉ có hai phương pháp, một là dùng tên lửa hành trình hoặc
đạn đạo có độ chính xác cao và hai là dùng máy bay ném bom. Ngay cả trong trường
hợp các phương pháp trên là hoàn toàn tin cậy, không có sai số và không bị đối
phương đối phó làm mất chính xác thì cũng chưa thể hoàn toàn tiêu diệt được mối
đe dọa. Bởi vì đối phương cũng có thể đã cất giấu máy bay đi nơi khác hoặc đưa
đến các sân bay dã chiến còn ở sân bay chính chỉ là vườn không nhà trống. Đối với
các loại hình khác cũng vậy.
Giả định trong trường hợp xung đột, một biên đội hoặc hạm đội
của đối phương ở trên vùng biển xung đột là mục tiêu tập trung hỏa lực bắn vào của
Việt Nam nhưng đạn bắn đến từ đâu thì đối phương rất khó phán đoán. Bởi vì các
phương tiện phóng bản thân nó đã có nhiều loại, từ nhiều môi trường khác nhau.
Đó là chưa kể ngay cả cùng một loại hình phóng nhưng các phương tiện phóng lại
có thể đến từ nhiều hướng khác nhau theo các kế hoạch bất ngờ hoặc là nhiều tên
lửa với các tốc độ và cự ly khác nhau từ nhiều môi trường khác nhau cùng tấn
công một mục tiêu để đảm bảo gây thiệt hại cho đối phương. Cách đánh như vậy có
thể gọi là phát triển tiếp của phương châm hỏa khí phân tán, hỏa lực tập trung
đã có kinh nghiệm từ pháo binh ở trận Điện Biên Phủ.
Post a Comment