Gần đây, trên mạng Sohu của Trung Quốc có bài viết với title: Năm 1978 lực lượng tăng thiết giáp Việt Nam có bao nhiêu xe tăng, sức chiến đấu thế nào?
Bài báo viết: "Năm 1978, Việt Nam tiến hành cải cách quân sự, điều chỉnh lại
quân đội. Nói nghiêm túc, sau khi điều chỉnh, khả năng hiệp đồng chiến đấu của
quân đội Việt Nam càng hoàn thiện. Trước đây tác giả từng nói về thực lực của bộ
binh và pháo binh Việt Nam, hôm nay chúng ta sẽ nói về thực lực của bộ đội tăng
thiết giáp Việt Nam. Trong thập niên 1970, vốn liếng của bộ đội tăng thiết giáp
Việt Nam rất mỏng. Không chỉ số lượng xe tăng rất ít mà tính năng cũng không tốt.
Điều quan trọng nhất là quân đội Việt Nam thiếu kinh nghiệm sử dụng xe tăng,
phương pháp tác chiến liên hợp các binh chủng cũng chưa thuần thục.
Địa hình Việt Nam chủ yếu là đồi núi và trung du, ngoài ra
là những mảng rừng rậm. Tác chiến trên địa hình đó, bộ đội tăng thiết giáp cơ bản
không thể thi triển. Thêm nữa Việt Nam vốn dĩ là một nước nông nghiệp, cơ bản
không có cơ sở công nghiệp nặng nào. Việt Nam chỉ có thể sản xuất các thiết bị
quân dụng đơn giản như đạn dược, còn các vũ khí nặng như xe tăng, pháo thì cần
viện trợ nước ngoài. Ngay cả cái cơ bản nhất là súng bộ binh cũng phải nhận viện
trợ. Việt Nam trước đó là một trong ba phiên quốc của nhà Thanh, năm 1885 trở
thành thuộc địa của Pháp.
Năm 1940, Pháp bị Đức đánh bại, quân Đức chiếm thủ đô Paris
của Pháp. Khi đó, đồng minh phương Đông của Đức là Nhật Bản nhân cơ hội chiếm
các thuộc địa của Pháp ở Đông Nam Á trong đó gồm cả Việt Nam. Nhưng Nhật Bản chỉ
thống trị ở Việt Nam trong 4 năm, năm 1945 Nhật Bản thua trận đầu hàng. Trong 4
năm này, quân đội Việt Nam từng bước hình thành. Sau khi Nhật thua trận, Pháp định
xác lập trở lại địa vị của mình ở Đông Nam Á. Việt Nam tất nhiên không thể chấp
nhận cho nên nổ ra chiến tranh chống Pháp. Cuộc chiến này từ giữa thập niên
1940 đến thập niên 1950. Trong cuộc chiến này, quân đội Việt Nam từng bước lớn
mạnh.
Tiềm lực của nước Pháp rút cục có hạn, đặc biệt là sau trận
Điện Biên Phủ, nước Pháp đã quyết định rút quân khỏi Việt Nam. Nhưng Pháp vừa
rút đi, Mỹ liền đặt vấn đề cần thiết phải nhảy vào vấn đề Việt Nam vì lợi ích bản
thân. Sau khi bước sang thập niên 1960, nước Mỹ trực tiếp phái quân đội tiến
vào Việt Nam dẫn đến cuộc chiến tranh chống Mỹ của Việt Nam. Cuộc chiến tranh
này từ đầu thập niên 1960 kéo dài đến giữa thập niên 1970. Khi đó, Liên Xô vì
muốn làm suy yếu tiềm lực Mỹ đã bắt đầu hỗ trợ Việt Nam mạnh mẽ, bao gồm cả các
vật chất chiến lược.
Trong thời kỳ Việt Nam nhận viện trợ, đại bộ phận đều là vũ
khí nhẹ. Trước hết vũ khí nặng vận tải có khó khăn rất lớn. Thứ hai quân đội Việt
Nam thiếu kinh nghiệm sử dụng vũ khí nặng. Xe tăng pháo binh của quân đội Việt
Nam số lượng không đủ. Đến năm 1973, Mỹ quyết định rút toàn bộ quân khỏi Việt
Nam. Năm 1975, Việt Nam thực hiện thống nhất Nam Bắc. Trong chiến dịch tấn công
Sài Gòn, tuy bộ binh Việt Nam phát huy tác dụng rất lớn nhưng tăng thiết giáp lại
đánh rất hỗn loạn. Do thiếu phối hợp giữa các binh chủng, bộ đội tăng thiết
giáp Việt Nam tổn thất rất lớn.
Xe tăng của Việt Nam chủ yếu là xe tăng Liên Xô, trong thập
niên 1970 chủ yếu là xe tăng T-34 và T-55. Hai loại xe này, mọi người đều không
lạ gì. Bước vào thập niên 1980, Liên Xô viện trợ cho Việt Nam dây chuyền sản xuất
xe tăng. Hiện nay, Việt Nam có khả năng sản xuất xe tăng T-55 nhưng loại xe
tăng này đã là lạc hậu, so với các vũ khí tiên tiến thế giới, thua kém rất lớn.
Hiện tại Việt Nam đang nhập khẩu một loạt xe tăng T-90 từ nước ngoài. Loại xe
tăng này tính năng rất tốt, là một vũ khí tiên tiến của thế giới hiện nay.
Mõ bình luận: Trong kháng chiến chống Mỹ, quả thật lực lượng
tăng thiết giáp của Việt Nam ít tham gia bởi vì đối đầu với Mỹ có ưu thế tuyệt
đối về hỏa lực, nếu đưa lực lượng ra đánh dàn trận quy ước với Mỹ thì như tướng
Giáp nói, quân đội Việt Nam không thể trụ được 2 giờ. Bộ đội tăng thiết giáp Việt
Nam bắt đầu xây dựng từ 1959 nhưng phải 9 năm sau, tận đến 1968 mới lần đầu
tiên tham chiến trong trận Tà Mây – Làng Vây. Sự xuất hiện lần đầu của xe tăng
đã khiến quân Mỹ và quân VNCH ngạc nhiên.
Từ đó, xe tăng đã tham gia nhiều chiến dịch chẳng hạn như
chiến dịch đường 9 Nam Lào bắt sống Đại tá Nguyễn Văn Thọ Lữ đoàn trưởng Lữ
đoàn dù số 3 VNCH có lực lượng xe tăng tham gia, chiến dịch Xuân Hè 1972 ở Quảng
Trị có xe tăng thiết giáp. Đặc biệt những chiến dịch năm 1975, lực lượng tăng
thiết giáp đã tích cực tham gia và đóng góp xứng đáng. Chiến dịch Tây Nguyên, sự
xuất hiện của xe tăng ở Buôn Ma Thuột khiến quân VNCH rệu rã tinh thần. Sau khi
giải phóng Huế và Đà Nẵng, cánh quân phía
Đông do tướng Lê Trọng Tấn phụ trách với mũi nhọn là đội hình cơ giới thọc
sâu bằng xe tăng thiết giáp đã càn quét từ Đà Nẵng vào tận Sài Gòn và cũng
chính lực lượng tăng thiết giáp của Quân đoàn 2 thuộc cánh quân phía Đông đã
vào Dinh Độc Lập sớm nhất mặc dù nhiệm vụ đánh Dinh Độc Lập theo kế hoạch là
giao cho Quân đoàn 4.
Sau khi thống nhất đất nước, tướng Lê Trọng Tấn sang Liên Xô
báo cáo về chiến dịch, được các tướng lĩnh Liên Xô đánh giá rất cao về nghệ thuật
hiệp đồng binh chủng trong chiến dịch giải phóng Sài Gòn – Gia Định. Tướng Lê
Trọng Tấn được mệnh danh là Zukov Việt Nam cũng là vì ông rất giỏi tác chiến hiệp
đồng binh chủng. Tất nhiên trong chiến tranh, chuyện ta đánh người người đánh
ta, không thể nói là không có tổn thất của mình. Do vậy, kết luận của tác giả
người Trung Quốc ở trên rằng Việt Nam thiếu kinh nghiệm tác chiến hiệp đồng các
binh chủng là hồ đồ.
Tags:
tay-tau-noi-ve-viet-nam