Theo truyền hình trung ương, gần đây, tin tức về việc Mỹ và
Việt Nam xích lại gần nhau khiến người bên ngoài chú ý. Bộ Quốc phòng Việt Nam
đưa ra thông báo cho biết tàu sân bay Mỹ Carl Vinson sẽ thăm cảng Đà Nẵng ở miền
trung Việt Nam vào tháng 3 tới. Người phát ngôn Lầu Năm Góc sau đó xác nhận.
Do đây là lần đầu tiên tàu sân bay Mỹ đến cảng Việt Nam kể từ
sau khi chiến tranh kết thúc năm 1975 nên dẫn tới nhiều suy đoán xôn xao. Có
bình luận cho rằng điều này biểu hiện “hợp tác quân sự Mỹ Việt thăng cấp đến tầm
cao mới”.
Nhưng quan điểm này khả năng là chỉ quá chú trọng vào “điểm”
mà lại bỏ qua “diện” của vấn đề.
Nếu chỉ là “quay lại Việt Nam”, bất kể tàu sân bay hay là hỗ
trợ quân sự, trên thực tế đều là “quay lại”: Trước đây vào 13/8/2011, tàu sân
bay Mỹ George Washington đã đến bờ biển gần Việt Nam và còn mời các sĩ quan cao
cấp Việt Nam lên tàu tham quan trung tâm chỉ huy tổng hợp của tàu.
Chuyến thăm lần đó còn được sắp xếp theo sau chuyến thử nghiệm
dài ngày lần đầu tiên (5 ngày) của tàu sân bay Liêu Ninh trên biển chưa đến 1
tuần.
Ngày 2/10/2014, hai nước Mỹ Việt công bố phát biểu của hai
ngoại trưởng Kerry và Phạm Bình Minh, tuyên bố Mỹ gỡ bỏ một phần lệnh cấm vận
vũ khí cho Việt Nam, “giúp đỡ Việt Nam bảo vệ an ninh trên biển”, sau đó “các
thương vụ xuất khẩu thiết bị tuần tra và đảm bảo an toàn hàng hải trên biển cho
Việt Nam sẽ được xem xét từng trường hợp một”.
Tháng 5/2016, Mỹ tuyên bố gỡ bỏ toàn bộ lệnh cấm vận vũ khí
cho Việt Nam.
Hạ tuần tháng 4/2017, một tàu chiến đã từng đến bờ biển Việt
Nam bắn phá hồi đầu thập niên 1970 sau khi được cho nghỉ hưu đã được chuyển cho
Việt Nam...
Bất kể là ý nghĩa tượng trưng hay là ý nghĩa quân sự thực tế,
những thỏa thuận hợp tác quân sự Mỹ Việt này so với tuyên bố tàu sân bay Carl
Vinson thăm Việt Nam còn đáng chú ý hơn.
Đúng vậy, bất kể là Mỹ hay Việt Nam, đều hy vọng tận dụng lần
‘tương kiến sau 43 năm này’ để thể hiện mối quan hệ thân mật hai nước, cùng với
“hành động chung” của hai nước trong lĩnh vực quân sự và địa lý chính trị.
Mỹ thì muốn để kiềm chế Trung Quốc thông qua các kế hoạch tự
do hàng hải ở Biển Đông còn Việt Nam cũng là muốn “tá lực đả lực”, lợi dụng “hợp
tác quân sự Việt Mỹ” đối trọng lại áp lực ngày càng lớn của Trung Quốc trong
tranh chấp chủ quyền Biển Đông. Rất hiển nhiên, hai nước đều muốn mượn vấn đề
này để phát huy thêm, đúng vào cái gọi là “dùng binh pháp phạt mưu thượng thừa”.
Nhưng một lần tàu sân bay Mỹ viếng thăm cũng không thể thanh
trừ hết các trở ngại cản trở việc quan hệ Việt Mỹ tiến xa hơn: Sự cản trở trong
nội bộ nước Mỹ và thậm chí ngay cả trong đảng Cộng hòa đối với vấn đề này cũng
rất lớn.
Tất cả những điều này cho thấy, hợp tác quân sự giữa hai bên
Việt Mỹ, ít nhất trong trước mắt vẫn rất khó thoát khỏi “dáng dấp thể hiện
chung chung” để thực hiện hợp tác trực
tiếp và mật thiết hơn. Các nhân tố hiện thực này sẽ không khác quá nhiều so với
hành động tàu sân bay Carl Vinson thăm Việt Nam.
Điều đáng nói là, căn cứ chính của tàu sân bay Carl Vinson là San Diego ở California, trong mùa xuân 2017
và 2018 đều “khoe cơ bắp” với các hoạt động rất lớn. Đối với xung quanh Trung
Quốc mà nói, biển Triều Tiên, Hoa Đông, Biển Đông đều trong phạm vi uy hiếp và
hoạt động của các máy bay trên hạm của tàu sân bay Carl Vinson. Khủng hoảng bán
đảo Triều Tiên, tranh chấp đảo Điếu Ngư, vấn đề Đài Loan cũng đều trở thành các
vấn đề liên quan đến tàu sân bay này của Mỹ.
Đứng trên góc độ Trung Quốc nhìn tàu sân bay Mỹ “mùa xuân đến
cửa”, cũng nên đặt nó vào “bàn cờ lớn” địa lý chính trị viễn Đông mà phân tích
chứ không nên chỉ đơn thuần nhấn mạnh đây là “lần đầu tiên quay lại sau 43 năm”.
Theo Sohu
Tags:
tay-tau-noi-ve-viet-nam