Trung Quốc và Việt Nam, thông qua sự cảnh giác với nhau về mặt
chính trị, thường xuyên nói về làm việc với nhau trên biển - nơi khoáng sản dầu
khí có thể tồn tại. Ngoại trưởng Trung Quốc đã gặp lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt
Nam hôm 2/4 và ông bộ trưởng này nói chính phủ của ông “sẵn sàng” để “khai thác
phát triển chung”. Phát hiện dầu hoặc khí ở bất kỳ đâu sẽ làm tăng thêm nhiên
liệu cho các nhà máy làm việc - vấn đề mà cả hai nước xem là quyết định đến
phát triển kinh tế.
Nhưng theo phán đoán tốt nhất của các nhà phân tích theo dõi
Đông Nam Á, Trung Quốc và Việt Nam đã bỏ một dự án khai thác năm 2016 sau ít nhất
9 năm tìm kiếm ở vịnh Bắc Bộ. Họ thấy không có nhiều nhiên liệu. Mỗi bên cuối
cùng đều đi đến quyết định tự tìm kiếm trên các vùng biển khác.
Carl Thayer - Chuyên gia về Đông Nam Á và là Giáo sư tại Đại
học New South Wales ở Australia nói: “Lô thăm dò này cơ bản được xem như không
khả thi, không có khả năng khai thác kinh doanh”.
Những năm cố gắng
Năm 2013, Công ty dầu khí CNOOC của Trung Quốc phục hồi lại
một thỏa thuận với PetroVietnam để khai thác nhiên liệu hóa thạch dưới đáy biển
của vịnh Bắc Bộ theo như báo Nhân Dân của Việt Nam nói. Hợp đồng này kết thúc
vào năm 2016 và không được tiếp tục kéo dài nữa. Hai công ty đã chấm dứt hiệu lực
của hợp đồng này vào năm 2016.
Thayer nói rằng nó đã được giữ cho tồn tại lâu hơn nhu cầu
kinh tế để chứng tỏ rằng Trung Quốc và Việt Nam có thể hợp tác. Hai bên tranh
chấp chủ quyền trên những phần của Biển Đông nhưng vẫn thường xuyên nói về việc
gác lại khác biệt vì lợi ích kinh tế hai bên. Việc hồi phục hợp đồng năm 2013
được nhằm “tăng cường cơ hội phát hiện dầu và khí tiềm năng để tăng cường nỗ lực
hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực dầu khí” - theo PetroVietnam nói.
Hợp đồng năm 2013 mà đã mở rộng phạm vi khu vực khai thác
ban đầu, là hợp đồng thứ 4 trong loại này. Từ 2007 đến 2013, hai tập đoàn đã
khoan thăm dò dầu khí, xây dựng dữ liệu và cố gắng đánh giá có bao nhiêu năng
lượng dưới biển. Hai đối tác đã khảo sát địa chấn 3D và đã khoan 1 giếng. Họ đồng
ý cùng chịu chi phí hoạt động này.
Nhân viên Việt Nam đã báo cáo “quan hệ hợp tác tốt giữa hai
bên” năm 2013 nhưng không đề cập đến việc có phát hiện dầu khí không. CNOOC
không trả lời yêu cầu bình luận về việc này.
Các dự án khai thác riêng biệt
Cả hai bên đã thấy rằng họ có thể tự tìm kiếm dầu và khí.
Năm 2014, Trung Quốc ủy quyền cho CNOOC đặt một giàn khoan vào vùng biển Việt Nam. Các
tàu Việt Nam đã va đụng với các tàu Trung Quốc trên biển để phản đối và vụ việc
này cũng gây ra một phong trào chống Trung Quốc mãnh liệt ở Việt Nam.
Trung Quốc cũng tiến hành nhiều vụ triển khai dàn khoan sau
đó quanh đường trung tuyến ở cửa vịnh Bắc Bộ, theo như Gregory Poling - Giám đốc
tô chức Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á ở Washington.
Hai năm sau đó, Chính phủ Việt Nam yêu cầu Bắc Kinh rút dàn
khoan dầu ra khỏi những khu vực của vịnh Bắc Bộ vẫn chưa phân định và yêu cầu
Trung Quốc không tái diễn việc đó nữa.
CNOOC hiện nay đang tìm kiếm dầu khí ở những nơi khác trên
Biển Đông. Hãng này nói năm ngoái rằng nó có thể mở 22 lô khai thác, bao phủ tổng
cộng 47270 km2 để hợp tác với các công ty nước ngoài, theo như Hoàn Cầu thời
báo công bố.
Các công ty dầu khí Việt Nam đang tranh thủ các đối tác nước
ngoài của họ. Các hãng của Việt Nam và Ấn độ đã làm việc với nhau từ 2014. Từ
giữa 2017 Bắc Kinh đã hai lần yêu cầu nhà thầu Repsol của Tây Ban Nha bỏ dự án
do Việt Nam dẫn đầu ở Biển Đông vì lý do mà họ đưa ra là việc ấy vi phạm tuyên
bố chủ quyền của Trung Quốc. Hiện giờ hãng khí CNG Vietnam Joint Stock Co. and
Exxonmobil đang chuẩn bị khai thác khí thiên thiên ở một mỏ trên Biển Đông được
đánh giá là có trữ lượng 150 tỷ mét khối. Gas có thể được sản xuất vào năm
2023.
Việt Nam cũng đang chuyển sang khai thác khoáng sản trên đất
liền nhiều hơn, theo như lời Frederick Burke - đối tác với hãng luật Baker
McKenzie ở thành phố Hồ Chí Minh. Việt Nam cần dầu thô xuất khẩu cho các nhà
máy lọc và một số xăng thành phẩm được nhập về để tiêu thụ. Xuất khẩu thô chiếm
khoảng 18% dự trữ ngoại tệ của Việt Nam.
Tags:
tay-tau-noi-ve-viet-nam