Đây là cách Nhật Bản theo đuổi để uy hiếp tàu sân bay TQ

Khi TQ có nhiều tàu sân  bay hơn, các láng giềng của nó và Hoa Kỳ chắc chắn bắt đầu chuẩn bị cho tình huống có thể xảy ra. Điều này đặc biệt đúng với Nhật Bản - đối thủ truyền thống của Trung Quốc trong khu vực. Trong khi bị hấp dẫn bởi việc cố gắng bắt chước chiến lược của Trung Quốc nhằm làm cho tàu sân bay Mỹ chịu nhiều rủi ro, một cách tiếp cận kinh tế và hiệu quả hơn sẽ là đẩy mạnh khả năng mà Nhật đã có sẵn: Đó là tàu ngầm.

Trung Quốc đã khánh thành tàu sân bay đầu tiên - tàu Liêu Ninh, một tàu cũ mua của Ukraine được tân trang lại, từ 2012. Nhưng tàu sân bay này chỉ có khả năng chiến đấu hạn chế và chủ yếu được dùng để huấn luyện nhân lực cho tàu sân bay mà Bắc Kinh sẽ đóng nội địa. Tàu sân bay nội địa đầu tiên của TQ đã được hạ thủy đầu năm nay và có thể sẽ đi vào phục vụ vào năm 2020.
Tàu ngầm Soryu của Nhật Bản.
Như biên tập viên Dave Majumdar đã nhấn mạnh, tàu sân bay thứ hai chỉ cải tiến chút đỉnh so với Liêu Ninh. Đáng nói là nó vẫn sử dụng sàn cất cánh kiểu nhảy cầu. Bắt đầu với tàu sân bay nội địa thứ hai, tàu sân bay Trung Quốc được kỳ vọng có công nghệ tiên tiến hơn, như sử dụng máy phóng hơi nước hay thậm chí một máy phóng điện từ. Majumdar trích dẫn một nhà phân tích quân sự Trung Quốc nói rằng: “002 hoàn toàn khác Liêu Ninh (001) và 001A, nó sẽ giống tàu sân bay Mỹ hơn là tàu sân bay Nga”.

Sau cùng, Trung Quốc hy vọng đóng ít nhất 6 tàu sân bay để tăng cường đáng kể khả năng triển khai sức mạnh của họ. Đây là một thực tế mà Nhật và phần còn lại của châu Á sẽ phải tranh đấu. Bắc Kinh đã đưa ra một kế hoạch đối phó với các nhóm tàu sân bay đối thủ bằng tên lửa đạn đạo chống tàu. Sát thủ tàu sân bay DF-21D của Trung Quốc nổi bật với khả năng điều khiển được sau khi tái nhập khí quyển cho phép Trung Quốc định vị lại đầu đạn sau khi phóng để tính toán sự di chuyển của tàu sân bay trong quá trình đạn bay.

Trong lý thuyết, Nhật có thể chế tạo một tên lửa đạn đạo chống tàu tương tự như vậy để đối phó các tàu sân bay Trung Quốc. Nhưng việc này sẽ là một cách tiếp cận sai lầm. Quyết định chế tạo tên lửa đạn đạo chống tàu của Trung Quốc có thể hiểu được vì công nghiệp quốc phòng của họ đã có kinh nghiệm rộng rãi trong ngành tên lửa, gồm cả tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân. Ngược lại, Nhật cho đến nay vẫn tránh phát triển các khả năng tấn công vì quy định của Hiến pháp hòa bình.

Dĩ nhiên Nhật là một quốc gia công nghệ tiên tiến và các nhà khoa học của họ có thể sản xuất tên lửa tương đối dễ dàng. Thực sự Nhật đã có sẵn kinh nghiệm với công nghệ không gian và các hệ thống phòng thủ tên lửa. Tuy nhiên phát triển một tên lửa đạn đạo chống tàu có khả năng sẽ mất thời gian và chi phí khổng lồ. Chính xác là mất bao nhiêu?

Chúng ta không biết Trung Quốc đã mất bao nhiêu để chế tạo DF-21D, nhưng chi phí tốt nhất để so sánh có lẽ là tên lửa Pershing-II của Mỹ. Pershing-II là một tên lửa đạn đạo có đầu đạn điều khiển được do Mỹ chế tạo vào cuối cuộc Chiến tranh Lạnh và nó thực sự gây cảm hứng cho Trung Quốc chế tạo DF-21D.
Khi Pershing-II bị phá hủy theo Hiệp ước INF, Văn phòng Thống kê Chính phủ đã thẩm tra chi phí của chương trình. Họ quả quyết rằng Mỹ đã tốn khoảng 2,6 tỷ USD để chế tạo 247 tên lửa Pershing-II, tính theo giá năm 2017 thì tương đương 5,8 tỷ USD.
Đó chỉ mới là giá của các tên lửa. Để chống lại có hiệu quả một mục tiêu di động như tàu sân bay, một tên lửa đạn đạo chống tàu cần được hỗ trợ bằng một cái thường được gọi là “hệ thống của hệ thống”. Như Robert Farley đã giải thích, DF-21D “phụ thuộc vào hoạt động của một bộ cảm biến phức tạp, cũng như một hệ thống liên lạc có khả năng tích hợp các cảm biến và chuyển thông tin đến người bắn”.
Nói cho chính xác, tên lửa đạn đạo chống tàu cần thông tin thời gian thực mà có thể được truyền đạt tới tên lửa trong quá trình bay để dẫn nó đến mục tiêu di động. Harry Kazianis đã chỉ ra, với Trung Quốc các hệ thống trinh sát này có thể gồm “radar ngoài đường chân trời, theo dõi vệ tinh và khả năng là cả máy bay không người lái, mỗi thứ cung cấp hướng dẫn đến 1 mục tiêu trong đại dương mở”. Tất cả những điều này sẽ làm tăng thêm chi phí cho Nhật nếu muốn đi theo cách của Trung Quốc.
Hơn nữa, bất chấp các cường điệu, chúng ta thậm chí chưa chắc chắn được sát thủ tàu sân bay của Trung Quốc thực sự có khả năng như thế nào. Như chúng ta biết, cho đến nay Bắc Kinh chưa bao giờ thử nghiệm tên lửa này để bắn một mục tiêu di động. Vả lại, mỗi bước của “hệ thống của hệ thống” hỗ trợ DF-21D tiềm ẩn sự dễ tổn thương trước các hành động phản công của đối phương. Nếu tất cả những cái khác thất bại, bản thân một nhóm tàu sân  bay tấn công mang rất nhiều hệ thống phòng thủ tên lửa có thể cung cấp hiệu quả như một phương sách cuối cùng.
Thay vì thử bắt chước Trung Quốc, Nhật Bản nên theo đuổi chiến lược cạnh tranh của riêng mình. Được phát triển bởi thế giới doanh nhân và vận dụng bởi Lầu Năm Góc ở giai đoạn gần cuối Chiến tranh Lạnh, chiến lược cạnh tranh theo đuổi việc khai thác lợi thế cạnh tranh của mình và nhược điểm cạnh tranh của đối thủ.
Học thuyết chống xâm nhập, chống tiếp cận của Trung Quốc đối phó với Hoa Kỳ là một trường hợp ví dụ vì nó khai thác địa lý của Trung Quốc và nhu cầu tiếp cận của Washington.
Như đã nói, Nhật không có kinh nghiệm với tên lửa nhưng tàu ngầm là một lĩnh vực họ rất tốt. Tàu ngầm Soryu của Nhật được cho là tàu ngầm diesel điện có khả năng nhất trên thế giới. Điều đáng nói là cho đến tận  ngày nay, các tàu ngầm có khả năng kém hơn vẫn đặt ra một mối đe dọa to lớn cho các tàu sân bay.
Như một quan chức Mỹ gần đây đã được trích dẫn câu nói khi đề cập đến các tàu ngầm nhỏ hơn của Nga rằng: “một tàu ngầm nhỏ có khả năng đe dọa một tài sản lớn như tàu sân bay”. Đây không phải là một đề án như DF-21D, tàu ngầm thực tế đã đánh chìm 8 tàu sân bay trong Thế chiến II.
Tàu ngầm cũng có giá cả tốt. Thậm chí tàu ngầm tương đối đắt như Soryu cũng chỉ khoảng nửa tỷ USD một chiếc. Có nghĩa là Nhật có thể đóng 11 tàu ngầm loại này với số tiền bằng với khoản tiền Mỹ dùng để chế tạo tên lửa Pershing-II. Hơn hết, tác chiến chống ngầm là một điểm yếu của Trung Quốc.

Mặc dù Bắc Kinh đã từng bước bọc lót khả năng chống ngầm của họ những năm gần đây, nhưng nhiều nỗ lực của họ tập trung vào phát hiện tàu ngầm ở vùng biển gần bờ chứ không phải vùng biển mở. Vì thế, tàu ngầm vẫn đưa đến một giải pháp kinh tế và hiệu quả cho Nhật để đối phó với các tàu sân bay tương lai của Trung Quốc. 

Theo National Interest

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn